8/11/08

Về Sa Đéc

Một vài hình ảnh về Sa Đéc sưu tập từ Internet...

Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Các hình ảnh được dẫn từ blog Chào Lớp 12L 2004-2005 và một số trang khác.

7/8/08

Làng bánh phồng bên dòng Sa Giang


Sa Giang là tên được người Sa Đéc xưa gọi dòng sông chảy ngang qua thị tứ sầm uất của xứ sở này. Nhiều sách xưa ghi lại rằng, Sa Đéc là vùng đất được lưu dân phương Nam tìm đến lập làng khá sớm bởi nơi đây được thiên nhiên ưu đãi...

Sa Giang là tuyến giao thương đường sông quan trọng nối liền sông Hậu với sông Tiền, nối Sa Đéc với các trung tâm kinh tế lớn phía Bắc sông Hậu và TPHCM, góp phần phát triển nhiều mặt của Sa Đéc ngày nay…

Các thành phần nguyên liệu sau khi được trộn với nhau sẽ được nhồi vào những chiếc túi vải hình ống dài và đưa vào nồi hấp chín nhiều giờ

Theo các sách về lịch sử tỉnh Đồng Tháp thì “ …Khi Gia Long lên ngôi, Sa Đéc là một phần của huyện Vĩnh An. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, khu vực Bắc sông Tiền là Tân Châu, Hồng Ngự xuống đến Sa Đéc được Gia Long qui hoạch thành trung tâm kinh tế. Suốt một thời gian dài sau đó, chợ ở Sa Đéc sung túc nhất Đồng bằng sông Cửu Long… ”. Sông Sa Đéc, một tuyến giao thông đường thủy quan trọng bậc nhất thời đó thường được gọi là Sa Giang…

Các cây bột được cắt thành những lát mỏng thật đều và đem phơi khô …

Có lẽ, vì xuất phát từ vùng đất bên bờ Sa Giang nổi tiếng từ xưa, nên ngày nay, trên nhiều thương hiệu hàng hóa hoặc sản phẩm thủ công truyền thống, người Sa Đéc rất thích đặt tên gắn liền với cái tên Sa Giang, trong đó, nổi bật và độc đáo nhất có lẽ là loại bánh dân gian truyền thống mang tên “Bánh phồng tôm Sa Giang”... Bánh phồng tôm Sa Giang được chế biến từ bột khoai mì tinh chế cộng với tôm xay nhuyễn và gia vị sao cho vừa ăn. Các thành phần nguyên liệu sau khi được trộn với nhau sẽ được nhồi vào những chiếc túi vải hình ống dài và đưa vào nồi hấp chín nhiều giờ. Sau đó, những cây bột này sẽ được cắt thành lát mỏng thật đều và đem phơi khô… Bánh sau khi chiên phồng đều, giòn, thơm mùi tôm rang và đặc biệt là có vị cay nồng của tiêu hột…

Để đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu, hiện nay, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Sa Giang đã đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại để sản xuất bánh phồng theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm với nhiều sản phẩm mới, tạo thương hiệu “Bánh phồng Sa Giang” trên thị trường trong và ngoài nước. Con tôm nước ngọt, bàn tay khéo léo và sự cần cù chịu khó của bà con làng nghề đã lưu giữ nghề làm bánh phồng Sa Giang ngót nghét trăm năm và đã trở thành một nghề truyền thống thật độc đáo...

Ngày nay, bánh phồng tôm luôn hiện diện trong ẩm thực của mọi gia đình người dân Nam bộ, góp phần làm phong phú thêm hương vị những món ăn vốn đã đặc sắc của người phương Nam… Đến với làng nghề, chúng ta luôn trân trọng những sáng tạo của bà con trong việc gìn giữ và phát triển làng nghề… Mong rằng bà con sẽ làm giàu với nghề truyền thống của mình và thương hiệu bánh phồng Linh Giang, Trương Giang hay Sa Giang… sẽ vươn xa hơn nữa trên thị trường ẩm thực thế giới…

Quách Nhị

(Nguồn: www.vinhlongtv.com.vn)

Nghề làm bột ở Sa Đéc

Thị xã Sa Đéc là một trong những đầu mối trung chuyển lương thực lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long và là địa phương nổi tiếng với làng nghề làm bột gạo. Hình thành và phát triển từ nửa thế kỉ nay, có lẽ do điều kiện tự nhiên thuận lợi : nguồn nước ngọt quanh năm, thổ nhưỡng, thời tiết phù hợp nên sản phẩm bột gạo ở đây có những giá trị riêng, khó có nơi nào sánh kịp.

Với trên 2000 lao động và sản lượng trên 30.000 tấn bột gạo/năm, làng bột Sa Đéc là nơi cung ứng chủ yếu cho nhu cầu tiêu thụ của TP.HCM và khắp vùng Đông, Tây Nam Bộ, xuất khẩu ra cả các nước Đông Nam Á.

Sản phẩm bột gạo ở đây được chia thành 2 loại : bột tươi, ướt, được cung cấp trực tiếp cho các nhà máy, cơ sở chế biến thực phẩm; bột khô dùng để dự trữ, chế biến dần. Từ bột gạo, người ta chế biến ra hàng chục mặt hàng thực phẩm rất hấp dẫn, không thể thiếu trong đời sống hằng ngày như phở, hủ tiếu, bún, các loại bánh, các sản phẩm ăn liền…

Bột lọc Sa Đéc còn nổi tiếng với bí quyết sản xuất gia truyền, độc đáo. Các thực phẩm được chế biến tử bột lọc Sa Đéc có chất lượng tuyệt vời, dai mà mềm, thơm ngon đặc trưng, khiến bạn ăn một lần nhớ mãi. Chính vì thế mà hủ tiếu Sa Đéc – một trong những món ăn được làm từ bột gạo Sa Đéc- từ lâu đã là đặc sản nổi tiếng, đến nay vẫn luôn được mọi nguời ưa chuộng với sợi hủ tiếu có độ dai vừa phải, kết hợp với nước lèo thơm lừng, ngọt đậm đà.

Hiện nay, nhà máy bột Bích Chi ở số 45 quốc lộ 80 thị xã Sa Đéc là nhà máy sản xuất bột lớn nhất tại Đồng Tháp, với sản phẩm mang nhãn hiệu “bột Bích Chi” đã có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước từ những năm trước 1975. Công suất hiện tại của nhà máy là 1200 tấn bột và 3000 tấn ngũ cốc/ năm. Đóng ở địa thế thuận lợi, nằm trong vùng nguyên liệu dồi dào cùng với đội ngũ công nhân lành nghề, nhà máy bột Bích Chi đang xúc tiến việc liên doanh với các đối tác đầu tư trong và ngoài nước nhằm đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao công suất, đưa thương hiệu “bột Bích Chi” đứng vững và tiếp tục khẳng định tên tuổi trên thị trường trong nước và thế giới.

(Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử Tỉnh Đồng Tháp)

19/7/08

Hủ tiếu quê mình

Mỗi lần về Sadec, dù bận thế nào tôi cũng dành thời gian đi ăn hủ tiếu, đơn giản chỉ để được thưởng thức lại cái hương vị đặc sắc không lẫn vào đâu và cũng không đâu có được của món ăn quê nhà. Cũng không ngoa khi nói rằng Sadec là nơi "ra ngõ gặp hủ tiếu". Quả vậy, ở Sadec, mỗi buổi sáng không món điểm tâm nào dễ kiếm bằng hủ tiếu. Hủ tiếu được bán ở khắp nơi, từ những quán nhỏ ven đường đến những những tiệm ăn sang trọng, đâu đâu cũng có hủ tiếu.

Hủ tiếu Sadec khác hẳn những nơi khác; ở đây chỉ xin nói đến vài điểm khác biệt so với hủ tiếu ở Saigon. Sợi hủ tiếu Sadec to hơn, ăn dai hơn và có hậu ngọt. Cái dai ở đây có nghĩa là không bở, chứ không phải giống như loại hủ tiếu dai bán ở Saigon. Loại này người Sadec gọi là hủ tiếu bột lọc và hầu như không được ưa chuộng vì khi ăn phải nhai mỏi miệng và chẳng có chút hương vị ngọt nào. Các quán hủ tiếu luôn luôn có hai loại là khô và nước. Nhân đây xin đặc biệt nói về hủ tiếu khô, món đặc sắc làm nên sự khác biệt khiến những ai đã từng thưởng thức qua sẽ mãi nhớ nhung.

Có một điều thú vị nho nhỏ là hủ tiếu khô ở Sadec được ăn trong dĩa, không như ở Saigon dù khô hay nước cũng đều cho vào tô. Theo thông thường người bán sẽ cho giá sống vào dĩa ; nếu ai muốn ăn giá trụn thì phải dặn trước. Hành và hẹ cũng để sống. Ăn sống có nhiều hương vị hơn. Kế đến là mỡ thơm làm cho dĩa hủ tiếu có vị bùi và béo. Đặc biệt trong hủ tiếu khô phải để thêm ít đường. Đây là một trong những điểm mấu chốt tạo ra sự khác biệt cho hủ tiếu khô Sadec. Và mấu chốt thứ hai tạo nên vị ngon chính là nước sốt. Người bán pha chế nước sốt càng khéo thì dĩa hủ tiếu càng ngon. Nhờ có nước sốt mà hủ tiếu trong dĩa không bị dính lại với nhau, khi ăn không có cảm giác khô khan mà ngược lại cảm thấy mềm mại và ngọt ngào.

Trước khi ăn, người ta hay cho vào dĩa hủ tiếu một ít ớt xắt nhỏ và nước tương. Ở Sadec người ta hay dùng nước tương chùa tại các quán hủ tiếu. Đó là loại nước tương do các chùa ở đây làm ra, thường ngọt hơn và không có hậu chua như những loại nước tương khác. Một điểm khác biệt nữa là người ta dùng hạnh (theo cách gọi của người Sadec mà Saigon gọi là tắc) nhiều hơn chanh khi ăn hủ tiếu. Vị chua và mùi thơm của hạnh rất khác chanh, dịu hơn và thơm nhẹ nhàng khiến dĩa hủ tiếu thêm hấp dẫn. Ăn hủ tiếu khô thì chắc chắn phải có thêm chén nước súp. Người Sadec không gọi là nước lèo mà dùng từ nước súp cho tất cả các loại nước dùng với hủ tiếu, phở, bún riêu hay cơm tấm.

Nếu bạn ăn hủ tiếu thịt thì những lát thịt và gan, đôi khi có cả phèo sẽ được cho luôn vào dĩa hủ tiếu; còn nếu gọi xương ống hay giò thì những thứ đó sẽ được cho vào tô nước súp to kèm theo. Nước súp được nấu từ xương, thịt heo, gan, phèo, khô mực và đặc biệt có rất nhiều củ sắn. Nếu thích người ăn có thể gọi thêm một tô củ sắn ăn kèm. Củ sắn được hầm lâu trong nồi súp trở nên mềm và hấp thụ thêm được vị ngọt của thịt và xương khiến nó trở thành món ăn ưa chuộng của hầu hết mọi người.

Thế đấy, hủ tiếu Sadec tưởng chừng bình dị nhưng khi đi đâu xa người Sadec không ai lại không thèm được ăn. Dù ở Sadec vẫn có phở, bún bò, cơm tấm rồi còn cả bánh tầm, bún riêu, bún thịt xào nhưng hủ tiếu vẫn là món được bán nhiều nhất và được ăn nhiều nhất. Từ các em nhỏ chỉ ăn được những chén hủ tiếu với thịt băm đến những thanh niên ăn phải gọi bánh thêm ăn cho thỏa thích, rồi những cụ già phải ăn hủ tiếu trụn cho thật mềm. Hủ tiếu đã tạo thành một nét văn hóa ẩm thực cho Sadec. Nếu ở đâu đó giữa Saigon bạn chợt nghe một người nào đó nói món hủ tiếu ở đây không ngon thì bạn có thể nghi ngờ đó là một người Sadec.

5/6/08

Một học sinh Sa Đéc sang Thụy Điển tranh giải thưởng Stockholm

Sáng 4/6, một tin vui đến với Đinh Trần Vũ An (học sinh lớp 11T trường THPT thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp): là thí sinh duy nhất trong cả nước đoạt tấm vé đi Thụy Điển để tranh giải thưởng Stockholm (Thụy Điển) dành cho học sinh trung học về nguồn nước.

Bộ lọc nước thải 100.000 đồng đạt giải Nhất

Trong 5 năm tổ chức cuộc thi “Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước”, chưa năm nào cuộc thi (do báo Khoa học & Đời sống, Quỹ môi trường Sida Thụy Điển, Bộ GD&ĐT, Bộ Tài nguyên Môi trường, Hội Bảo vệ thiên nhiên & môi trường Việt Nam đồng phối hợp tổ chức) nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các em học sinh trên toàn quốc như năm nay.
Tổng cộng có 2.761 bài dự thi được gửi về ban tổ chức.
Qua 4 vòng sơ tuyển, trung tuyển, ban giám khảo chọn được 10 đề tài có chất lượng tốt nhất mời về Hà Nội phỏng vấn trực tiếp. Kết quả, giải nhất thuộc về đề tài “Lối thoát nước mới cho nước thải hộ gia đình”. Tác giả của đề tài là một HS lớp 11 đến từ trường THPT thị xã Sa Đéc (Đồng Tháp) – em Đinh Trần Vũ An.

Theo mô tả của An, cấu tạo của cống lọc nước mà em thiết kế khá đơn giản và được làm bằng những nguyên vật liệu dễ kiếm. Cống có 3 phần: miệng, thân và đáy. Miệng cống dốc, đường kính 8 – 10cm, thân cống thiết kế một trục trong đó có 2 dãy than hoạt tính xen kẽ 4 cửa thoát nước phụ đặt tại thân cống.
Dưới thân cống đặt một trục thẳng đứng bố trí 3 cánh quạt, cánh quạt dạng xoáy giống cánh quạt làm mát CPU máy tính. Cánh quạt này có tác dụng tăng vận tốc nước để nước nhanh tiếp xúc với than hoạt tính đặt tại các thân cống. Nước sau khi được lọc qua than hoạt tính sẽ thoát ra các cửa thoát nước chính và thoát nước phụ. Trong cống bố trí lưới lọc sơ bộ để cản những rác bẩn vô tình rơi xuống cống.

Đề án dựa trên ba tính chất chủ yếu: Lực mô men quay chuyển động xoáy của dòng nước tạo ra; tính chất xoáy của nước khi chuyển động thành vòng tròn; tính chất lọc khuẩn đa năng của than hoạt tính. Kết quả thực nghiệm (qua 9 ngày vận hành) đề án của An cho thấy, hiệu quả lọc nước sạch trung bình đạt 70 – 85%. Nước ít tạp chất, sau khi lọc không còn mùi xà phòng, dầu mỡ và các hóa chất có hại khác. Các sinh vật như cá, trùn (giun) có thể sống bình thường ở môi trường nước đã qua lọc. Đề án có tính khả thi cao bởi dễ lắp đặt, có thể thực hiện ở mọi địa phương, giá nguyên liệu rẻ. An cho biết, chi phí cho hệ thống cống này khoảng 100.000 đồng/ bộ.

Giải thưởng làm thay đổi ước mơ

An là con duy nhất của một gia đình cán bộ viên chức nhà nước ở thị xã Sa Đéc. Cuộc sống của một cậu học trò ngoan, học giỏi sẽ thật phẳng lặng nếu như không có một buổi lũ bạn ở lớp 11 T của An không ngừng bàn tán về cuộc thi “Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước”. Một bạn vô tình nhắc đến tính chuyển động xoáy của nước làm An sực nhớ đến cống nước thải trong khu nhà mình.

Do thị xã đang mở một con đường chạy qua trong khu nên cống nước thải gần nhà An luôn luôn bị tắc. Mùa mưa cũng như mùa nắng, người dân trong khu phố của An cứ phải sống chung với mùi hôi thối bốc từ cống nước.
Vậy là An nảy sinh ý tưởng thiết kế một cống lọc nước thải dùng cho hộ gia đình. “Hộ nào cũng đều thải nước thải đã qua lọc ra ngoài thì dù khi cống nước bị tắc, nước cũng sẽ không bốc mùi hôi thối như vậy”, An nói.

Trong quá trình cùng bạn bè trường THPT thị xã Sa Đéc thực hiện các đề tài hưởng ứng cuộc thi, các thầy cô trường Sa Đéc mải bận tập trung cho khối 12 ôn thi. Do đó, An cũng như nhiều bạn khác phải tự nghiên cứu mày mò để ra được sản phẩm. Khó khăn nhất là lúc cần phân tích mẫu nước, đánh giá độ sạch của nước. An phải hỏi các bạn xem có ai có anh, chị học về công nghệ sinh học ở các trường ĐH không để nhờ giúp đỡ. Do thời gian quá gấp nên khi hoàn thành đề tài, An gửi thẳng bài thi ra Hà Nội mà không thông qua trường. Kết quả là cả tỉnh Đồng Tháp chỉ có đề tài của An lọt vào vòng chung khảo và “ẵm” giải nhất.

Trao đổi với Tiền phong, thầy giáo Đỗ Anh Tuấn - Trợ lý thanh niên trường THPT thị xã Sa Đéc, người tháp tùng em An ra Hà Nội nói: “Hôm được tin bài thi của An lọt vào vòng chung khảo, Ban giám hiệu bất ngờ và mừng hết biết! Giờ lại đến tin vui em An đạt giải nhất nữa, thật tuyệt vời! Đây không chỉ là vinh dự của cá nhân em An mà là còn là niềm tự hào của trường THPT thị xã Sa Đéc”.
Theo An, những nguyên lý mà An áp dụng cho bài thi của mình dựa trên những kiến thức rất đơn giản mà em đã được học trong chương trình phổ thông. An nói: “Chẳng hạn, về lực mô men chuyển động thành vòng tròn (môn Vật lý) thì HS cấp THCS đã được học”.

Từ trước đến nay mơ ước của An là thành nhà kinh doanh, hoặc thành dược sĩ. Nhưng khi nhận được giải thưởng, suy nghĩ của An rẽ sang hướng khác. An tâm sự: “Trở thành nhà nghiên cứu khoa học về công nghệ sinh học, hoặc nhà bảo vệ môi trường, đó có thể cũng là những nghề phù hợp với em”.

M.B - Tiền Phong

Hủ tiếu khô Sa Đéc


Hủ tiếu khô là món ăn rất phổ biến của người Nam Bộ. Và hủ tiếu khô Sa Đéc ngon không chỉ nhờ bánh hủ tiếu mà còn do cách nêm nếm của đầu bếp.

Không như những nơi khác, ở Sa Đéc, sau khi trụng hủ tiếu, cho vào dĩa, người ta mới để ít giá, hẹ, vài lát thịt nạc lên, rồi chan vài muỗng nước sốt cà chua. Trong nước sốt cà, người bán đã nêm sẵn đủ các thứ gia vị như đường, bột ngọt... nhờ vậy, nhìn đĩa hủ tiếu dường như không thấy nêm nếm gì nhưng ăn vào lại ngon đáo để.

Ăn một miếng hủ tiếu Sa Đéc, bạn sẽ cảm nhận được một mùi vị hết sức đặc trưng không đâu có được. Bánh hủ tiếu không quá dai cũng không quá bở, cộng với vị chua của nước sốt cà, béo của thịt, ngọt của đường, thơm của tóp mỡ... tạo sự hấp dẫn cho món ăn.

(Theo SGGP)

5/5/08

Chùa Bà Sa Đéc

Chùa Bà ở Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp là một ngôi chùa cổ kính, có lối kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách Trung Hoa. Chùa được cộng đồng người Hoa ở đây xây dựng từ năm 1867 để làm nơi thờ cúng và dùng cho việc sinh hoạt cộng đồng ở địa phương. Chùa có diện tích trên 1.000 m2, tọa lạc tại số 143 đường Trần Hưng Đạo, phường 1, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Hiện nay, nơi này là một cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa ở Sa Đéc và là nơi người dân, khách du lịch ở mọi miền đất nước, về thưởng ngoạn và cúng bái.

Được biết trước đây, ngôi chùa chỉ nằm trên một khuôn viên hẹp, chủ yếu được cất bằng tre lá, do nhóm người Hoa Phước Kiến đề xuất xây dựng. Đến năm 1886 chùa mới bắt đầu trùng tu và xây dựng thêm, mở mang diện tích, xây gạch, ốp đá, trang trí, nên chùa có qui mô lớn hơn, nhiều màu sắc sặc sỡ. Hầu hết các nguyên vật liệu để trùng tu ngôi chùa đều được chở từ Trung Quốc sang. Hiện nay, chùa có bốn bang Quảng Đông, Triều Châu, Hẹ, Phước Kiến thay phiên nhau bảo quản và lo khói hương cúng bái.

Trước chùa Bà có một khoảng sân rất rộng, được tráng xi măng sạch sẽ, trồng nhiều cây kiểng, có hàng rào bao bọc xung quanh. Nóc chùa được lợp ngói âm dương. Trên mái nóc trang trí hình lưỡng long tranh châu cùng tượng các hình nhân của các vị tiên, phật trong các truyện xưa tích cũ của Trung Hoa. Trên trần nhà, phía dưới mái nóc, có rất nhiều tranh vẽ về các câu chuyện truyền kỳ của Trung Quốc như: Tam quốc diễn nghĩa, Phong Thần, Đông Chu liệt quốc... Dưới trần nhà, hai bên có hai tượng kỳ lân bằng đá đang ngồi trên thanh xà ngang, mặt hướng về phía trước như trấn giữ cho ngôi chùa.

Dưới mái nóc, còn có treo những quả đèn cầu hai bên trông thật đẹp mắt. Ở hai cửa chính, có hai dòng chữ Hán: Bên trái là An dân. Bên phải là Bảo quốc. Ngoài ra, chùa còn có đông lang và tây lang - dùng để sinh hoạt tiếp khách. Một bên thờ Tề thiên đại thánh, một bên thờ Quan thánh đế quân.
Ngay sau cửa chính có hai bàn thờ của Hữu môn thần và Tả môn thần ở hai bên. Trên cổng chính là bức hoành phi với dòng chữ Hán là Thiện Hậu cung. Chùa được cất theo hình chữ Đinh, đặc biệt là gian trước và gian sau được cất liền nhau, không có sân thiên tĩnh. Hai bên vách, phía trên được để trống chứ không xây bít lại - dùng để đón lấy ánh sáng mặt trời, nên trong chùa rất sáng sủa và thoáng đãng, không có vẻ tĩnh mịch nhưng lại cũng rất trang nghiêm.

Có 16 hàng cột to dùng để đỡ mái nóc. Xung quanh các hàng cột này, có rất nhiều liễn đối bằng chữ Hán với nền đỏ sậm và dòng chữ đen tuyền. Xung quanh cũng có rất nhiều hình vẽ, hoành phi, câu đối, võng lọng được trang trí khéo léo nên trông rất đẹp mắt, đồng thời thể hiện một cách đặc sắc trong phong cách văn hóa truyền thống Trung Hoa thông qua các liễn đối và cách bài trí.
Nhưng lộng lẫy và uy nghiêm nhất chùa là chính điện. Phía trái có một tòa tháp 7 tầng dùng để đựng chân nhang mỗi khi đốt xong. Gian chính điện được trang trí lộng lẫy với nhiều hoành phi màu đỏ và sắc chữ màu vàng. Chính điện được chia làm ba gian chính.

Gian giữa là bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu - vị thần được bà con người Hoa xem như một vị thần biển có công giúp đỡ ngư dân, thương buôn... Trong cuộc sống mưu sinh của họ, bà thường hiển linh trợ giúp kịp thời những tàu thuyền mỗi khi gặp gió to sóng lớn, phù hộ cho dân chài có cuộc sống an lành, bình yên. Chính vì lẽ đó, hình ảnh của bà luôn được cộng đồng người Hoa suy tôn là một vị thần theo lệnh trời phù hộ cho muôn dân.

Theo truyền thuyết, vào đời Tống Thái Tổ, Kiến Long nguyên niên (960), tại huyện Bố Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phước Kiến, có con gái thứ 6 của Lâm Nguyên. Khi mới lọt lòng mẹ đã tỏa hào quang, hương thơm. Khi lớn có thể cưỡi chiếu, biển, cưỡi mây đi du ngoạn khắp nơi. Đến năm Tống Thái Tôn thứ 4 (987) bà đã giã từ cõi trần, hưởng dương 27 tuổi. Truyền thuyết dân gian cho rằng bà thường hiển linh mặc đồ đen bay lượn trên biển. Từ đó qua các triều đại phong kiến Trung Quốc bà đều được phong tước hiệu. Đời Nguyên, được phong làm Thiên Phi, đời Thanh Khang Hy, bà đều được gia phong làm Thiên Hậu...


Theo sử liệu, thì vào đầu niên đại Mãn Thanh (đầu 1760), đã có rất nhiều thương buôn đi tàu sang Việt Nam buôn bán, làm ăn, do đi tàu sóng to gió lớn nên trên tàu đều có thờ Thánh Mẫu để phù hộ. Lúc bấy giờ, tàu bè đi biển thường trông theo hướng gió, thường đi từ lúc mùa gió Bắc và về lúc mùa gió Nam, do đó họ luôn phải ở lại Việt Nam vài ba tháng mỗi năm. Nhiều người trong số thương buôn đã đề nghị hùn tiền xây miếu để thờ bà và xây Hội quán để làm nơi dừng chân của họ. Sau này, vì bên Trung Quốc, thời cuộc không ổn định, nhiều thương gia đã không về nước mà ở lại Việt Nam để an cư lạc nghiệp.


Hằng năm, chùa Bà ở Sa Đéc có hai ngày lễ lớn: ngày 23 tháng 3 âm lịch là vía ngày sanh. Ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày hiển thánh. Nhưng long trọng hơn cả là ngày vía bà 23 tháng 3 âm lịch. Để tổ chức tốt cho kỳ lễ vía, bà con người Hoa đã chuẩn bị nhiều ngày trước đó: khoảng 18 tháng 3 âm lịch là bà con người Hoa đã tập trung ở Hội quán để sửa sang, quét dọn, chuẩn bị... Người ta tổ chức tắm cho Bà sạch sẽ, thay quần áo mới cho Bà. Lễ tắm Bà được tổ chức rất trang trọng, nơi Bà ngự được quét dọn sạch sẽ, căng màn che lại, cử hai cô gái vào tắm rửa cho Bà. Người ta nấu nước sôi để nguội rồi đổ vào thau, hái lá bưởi để vào rồi dùng khăn tắm cho Bà. Lá bưởi được người Hoa tin như một thứ bùa hộ mệnh dùng để tẩy sạch bụi trần, bao điều phiền muộn, những thứ xui xẻo, không may mắn. Sau khi tắm Bà xong, người ta lấy nước đó về tắm cho trẻ con để cầu mong nó được khỏe mạnh, nên người.


Khoảng 6 giờ sáng, ngày 23 tháng 3 âm lịch, những người trong Ban trị sự của Hội quán đã đến chuẩn bị lễ vật cho ngày vía Bà. Lúc này cũng đã có nhiều người đến cúng bái. Người ta mang theo nhang đèn, trà, rượu.... gà vịt đã làm sẵn để cúng bái. Cúng xong, có người mang lễ vật về, nhưng cũng có người để lại. Đúng 9 giờ sáng là chính thức làm lễ vía Bà. Bởi số 9 được người Hoa quan niệm là con số may mắn nên 9 giờ là giờ tốt. Khi lễ vía Bà ở Hội quán xong, bà con người Hoa còn tổ chức đưa Bà đi du ngoạn quanh các đường phố, các con đường lớn, người ta khiêng tượng Bà đi vòng quanh các con phố gọi là thỉnh Bà hành cung. Trong buổi du ngoạn đó, có đại diện Ban trị sự Hội quán, đông đảo bà con người Hoa đi cùng, mặc đồ lễ, có lọng che, cờ phướn, cờ lệnh, trống kèn... thật nô nức, nhộn nhịp. Mục đích của chuyến du ngoạn này là để cho Bà xem nhân tình thế thái, cảnh sắc quê hương... Trên đường Bà du ngoạn, có một vài gia đình người Hoa đặt bàn cúng trước nhà - nơi Bà sẽ đi qua để hộ tống Bà và cũng cầu Bà ban cho phước lộc, tiền tài...

Ngày nay, lệ này dường như không còn nữa vì tổ chức như vậy rất rườm rà và tốn kém.
Chùa Bà Sa Đéc thiên về cúng đồ chay, nhưng trong những ngày vía, ngày lễ đó người ta cũng cúng mặn gồm heo, gà, hương đăng trà quả... Trong các ngày này, khách thập phương cũng như dân làng xung quanh đổ về chùa rất đông. Tất cả đều thành tâm cúng bái, vui chơi, thưởng ngoạn. Ngày vía bà hằng năm thật sự là một ngày hội lớn, là một nét sinh hoạt văn hóa vui tươi và đầy bổ ích không chỉ của cộng đồng người Hoa ở Sa Đéc mà còn là niềm vui chung của các dân tộc ở đây. Vì lẽ đó mà ngày 10 tháng 4 năm 2003 Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã ra Quyết định số 416/QĐ.UBHC công nhận chùa Bà là một di tích lịch sử cấp tỉnh.

Kiều Quang - Báo Cần Thơ

Nghệ sĩ Năm Sa Đéc: Ngôi sao sáng cải lương Nam bộ

Ở Nam bộ, nói đến nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc, từ tuổi 40 trở lên ít ai là không nghe danh tiếng của bà.
Lùi lại hơn 80 năm trước, từ giai đoạn sơ khai của nghệ thuật cải lương, phong trào ca nhạc cổ điển được nhân dân ái mộ và phát triển rộng khắp các làng quê nông thôn Nam bộ. Từ năm 1910, bài bản cổ nhạc khá phong phú đa dạng qua các làn điệu hò, lý, ngâm... thuộc dân ca đã được chuyển hóa, đủ 3 Nam, 6 Bắc, 4 Oán, 7 bài lớn, 8 bài Ngự, 10 bài Liên Hoàn... Danh ca, nhạc sĩ, xuất hiện đông đảo.

Các lễ hội cúng đình, cúng miễu, giỗ chạp, tiệc tùng, liên hoan, thôi nôi, đầy tháng... hay rước các danh ca, nhạc sĩ giúp vui, thường họ ít khi nhận thù lao, chỉ chè chén qua loa cho xôm tụ, với sự góp mặt của các nhà giáo, các kỳ lão. Tóm lại, nơi nào có quần chúng tụ họp là có tài tử đàn ca. Lúc đầu còn ngồi ca, tài tử cao hứng vừa ca vừa ra bộ. Ca và ra bộ càng nhiều thì khán giả càng tán thưởng. Rồi lần hồi tiến dần đến hát chập, cao hơn một bước nữa là sân khấu.

Năm 1915, tại tỉnh Sa Đéc, một gánh hát bội tiên phong ra đời mang tên Thiện Tiền Ban do ông Hương Cả Tam, tên thật là Nguyễn Văn Tam, đứng ra thành lập và làm “bầu gánh”. Hương Cả Tam chánh quán tại làng Tân Đông, tổng An Thạnh Hạ, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Mà Hương Cả Tam là thân sinh của nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc.

Nghệ sĩ Năm Sa Đéc, chính danh là Nguyễn Kim Chung, sinh năm 1908 và mất năm 1988, hưởng thọ 80 tuổi. Năm nay, kỷ niệm 90 năm ngày sinh và 18 năm ngày giỗ của bà.

Nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc gia nhập sân khấu theo chí hướng của cha mẹ. Vì Năm Sa Đéc xuất thân từ hát bội. Gánh hát mà bà gia nhập là Phước Tường năm 1928, năm đó bà mới 20 tuổi, chủ gánh là Sáu Xưởng, em ruột của Nguyễn Ngọc Cương, bầu gánh Phước Cương, thân sinh của nữ NSƯT Kim Cương. Sau đó, bà rời gánh Phước Tường, cộng sự với đoàn Phụng Hảo của nữ NSND lão thành Phùng Há, lần lượt bà cộng tác gánh Vân Hảo (Ba Vân - Phùng Há), Thanh Minh - Thanh Nga (chủ bầu Lư Hòa Nghĩa, cha ruột của Thanh Nga và Bảo Quốc)... Vì bà từ sân khấu hát bội bước qua lĩnh vực cải lương nên nghề nghiệp rất vững vàng, chỉ cần học tập thêm chút ca cổ là tiến bộ rực rỡ trên nghệ thuật sân khấu cải lương.

Mấy chục năm qua, người sành điệu sân khấu ca kịch, chắc còn nhớ vai bà Phán Lợi, do nữ diễn viên Năm Sa Đéc thủ diễn, qua vở xã hội Đoạn tuyệt (phóng tác theo tác phẩm cùng tên của nhà văn Nhất Linh) rất thành công, được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt qua nhiều lần trình diễn trên sân khấu đại ban Thanh Minh - Thanh Nga, ăn khách một thời. Nhiều ký giả kịch trường thời đó đã khẳng định chưa ai thủ diễn vai bà Phán Lợi hay hơn nữ diễn viên Năm Sa Đéc.

Và đời sống hạnh phúc lứa đôi, bà đã một lần đổ vỡ, mãi đến năm 1947, bà chắp nối cùng nhà biên thảo Vương Hồng Sển, nguyên Giám thư Bảo tàng viện Sài Gòn. Qua quá trình chung sống với cụ Vương Hồng Sển hơn 40 năm, bà hạ sinh người con trai duy nhất là Vương Hồng Bảo, sinh năm 1951. Ngoài địa hạt ca kịch cải lương, bà còn là nữ minh tinh điện ảnh qua nhiều bộ phim thực hiện trước năm 1975 mà chắc khán giả khó quên: Lệ đá, Con ma nhà họ Hứa...

Sau năm 1975, mặc dù tuổi tác đã cao, nhưng nghệ thuật vẫn không chùn bước, “Gừng càng già càng cay”, khán giả yêu mến kịch nói vẫn tiếp tục gặp lại bà trong vở Lá sầu riêng của đoàn kịch Kim Cương. Dù vắng mặt trên sân khấu, bà Năm Sa Đéc lại xuất hiện ở phim ảnh với những bộ phim quen thuộc như: Cho đến bao giờ (do đạo diễn Huy Thành năm 1983), Mùa nước nổi (Hồng Sến năm 1984), Con thú tật nguyền (Hồ Quang Minh năm 1984), Nơi bình yên chim hót (Việt Linh năm 1986) và bộ phim cuối cùng là Phù sa thực hiện năm 1987 bà thủ diễn vai bà Hai Lành. Hoàn thành bộ phim Phù sa, bà Năm Sa Đéc trở về Sài Gòn rồi nhuốm bệnh, phần tuổi cao, sức yếu... bà từ giã cỏi đời một cách đột ngột vào năm 1988, thọ 80 tuổi.

Nhắc đến chân dung nghệ sĩ Năm Sa Đéc vang bóng một thời để khách mộ điệu thương tiếc một tài hoa với đức hạnh vẹn toàn để lớp nghệ sĩ sau lấy đó làm điểm tựa soi gương, đồng thời thắp nén hương tưởng niệm bà nhân 90 năm ngày sinh và 18 năm ngày giỗ nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc.
TRỌNG TRÍ

(Báo Bình Dương)

22/2/08

Xây dựng thị xã Sa Đéc trở thành đô thị công nghiệp

Tỉnh Đồng Tháp vừa quyết định phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thị xã Sa Đéc đến năm 2025. Theo Quyết định này, trong tương lai thị xã Sa Đéc sẽ là đô thị trung tâm kinh tế cấp vùng của tỉnh, trực tiếp đón nhận và chuyển giao thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại cho các vùng lân cận, đồng thời là nơi trung chuyển và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của vùng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 trở thành đô thị công nghiệp, phát triển toàn diện và bền vững.

Tỉnh đã phê duyệt phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của vùng Sa Đéc đến năm 2010 là: Phát huy lợi thế về nguồn nhân lực, vị trí địa lý để đưa vùng Sa Đéc - khu vực thu hút mạnh các nhà đầu tư, trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội năng động, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất tỉnh. Tập trung xây dựng thị xã Sa Đéc trở thành trung tâm công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, giữ vai trò đầu tàu thúc đẩy cả vùng cùng phát triển. Một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 phải đạt được là: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân toàn vùng đạt 16%/năm, trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 33%/năm; thương mại - dịch vụ tăng 15%/năm; nông - lâm - thuỷ sản tăng 5%/năm. Thị xã Sa Đéc tăng bình quân 20%/năm. Đến năm 2010, mức đóng góp của vùng trong GDP cả tỉnh chiếm 36%. Thu nhập bình quân đầu người toàn Vùng đạt 750 - 800 USD/người/năm (trong đó thị xã Sa Đéc đạt 1.750 - 1.800 USD/người/năm). Tỷ trọng trong cơ cấu GDP của khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 40%; khu vực thương mại - dịch vụ chiếm 32%; khu vực nông - lâm - thuỷ sản chiếm 28%... Tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn Vùng đạt 41,3%, trong đó đào tạt nghề đạt 27,6%. Hàng năm giải quyết việc làm cho 14.700 lao động, trong đó xuất khẩu lao động 710 người. Nâng tỷ lệ dân số sống ở đô thị toàn Vùng đạt 32%; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,39%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn dưới 20%; có 95% số hộ được cung cấp điện; có 85% số hộ dân vùng nông thôn được dùng nước sạch vào năm 2010.

Ưu tiên chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội một số ngành và lĩnh vực chủ yếu như: Phát triển công nghiệp và đô thị: Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, vốn đầu tư ít, kết hợp trình độ công nghệ. Về lâu dài, coi trọng việc phát triển các ngành có trình độ công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng lao động có tay nghề cao.

Tích cực hỗ trợ, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, doanh nghiệp đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất và thành lập thêm nhà máy mới. Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp có lợi thế về nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ như: chế biến nông - thuỷ sản - thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng; công nghiệp vật liệu xây dựng, gốm đất nung; công nghiệp cơ khí phục vụ công nghiệp, xây dựng và nông nghiệp; khuyến khích đầu tư phát triển thêm một số ngành, sản phẩm như: chế biến trái cây, sản phẩm nhựa dân dụng; sản xuất dầu thực vật; bánh kẹo, nước giải khát; giày da; chế biến súc sản; lắp ráp điện, điện tử; tồn trữ, bảo quản rau quả... Chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề với những sản phẩm phù hợp nhu cầu của thị trường.

Cùng với việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng, tăng cường vận động đầu tư vào các Khu công nghiệp Sa Đéc, Sông Hậu, các cụm công nghiệp: An Hiệp, An Nhơn (huyện Châu Thành), Tân Phú Đông, Tân Quy Tây (thị xã Sa Đéc), Tân Dương, Hoà Thành (huyện Lai Vung), Vàm Cống, Bắc kênh xáng Lấp Vò (huyện Lấp Vò) để đầu năm 2008 cơ bản có hạ tầng kỹ thuật đủ điều kiện cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án đã đăng ký đầu tư. Tập trung đầu tư phát triển mạnh về thương mại, dịch vụ và du lịch cho cả vùng, trong đó tập trung cho đầu tư chỉnh trang, mở rộng không gian nội thị thị xã Sa Đéc theo hướng đô thị văn minh, hiện đại, đúng quy hoạch. Dự kiến quy mô dân số của thị xã Sa Đéc đến năm 2025 khoảng 180.000 người, dân số nội thị khoảng 140.000 người; tổng diện tích đất quy hoạch 3.245 ha, trong đó đất ở gần 1.000 ha, chiếm hơn 30%, đất xây dựng các công trình công nghiệp, thương mại, dịch vụ và giao thông 698 ha, chiếm gần 22%, đất xây dựng các công trình văn hoá, thể thao, y tế, trường học, công viên, cây xanh hơn 172 ha, chiếm 5% và đất dự trữ phát triển hơn 194 ha, chiếm 6%.

Hiện tại, thị xã Sa Đéc đang có tốc độ phát triển kinh - tế xã hội cao nhất tỉnh. Nổi trội nhất là phát triển công nghiệp (do có quốc lộ 80 đi qua và Khu công nghiệp Sa Đéc đang thu hút mạnh đầu tư) và hệ thống thương mại- dịch vụ chi phối mạnh trong khu vực. Để nâng tầm vóc của Sa Đéc trở thành đô thị công nghiệp, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã quyết định qui hoạch vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sông Tiền bao gồm thị xã Sa Đéc và 03 huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò, lấy thị xã Sa Đéc làm trung tâm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội./.

(Nguồn: TTXVN)

Related Posts with Thumbnails